Tư duy kinh tế nào đã và đang giết chết từng ngành và toàn diện nền kinh tế Việt Nam?
Phan
Châu Thành
Đặt vấn đề về Tư duy Kinh tế của Việt Nam
Từ hơn năm chục
năm nay, tức là ngay trong và sau các cuộc chiến tranh, khách quan mà nói, nhà
nước XHCN Việt nam đã luôn có những cố gắng tìm cách phát triển nền kinh tế mà
họ định hướng là sẽ phải mang tính XHCN. Thế nhưng tại sao kết quả thì “Việt Nam vẫn là nước
nghèo”, như TTg NTD mới vừa “hùng hồn” tuyên bố?
Thực tế, kinh tế nước Việt ta
đang còn lùi xa sau các nước lân cận mà trước đó, ngay cả khi trong những cuộc
chiến tranh tàn khốc, nước ta vẫn có Hòn ngọc Viễn đông để vẫy gọi họ.
Hơn ba chục năm
hoà bình ổn định là thời gian đủ dài để hai nước Á Đông lớn trở thành cường
quốc kinh tế thế giới là Nhật (số 3 thế giới) và Trung quốc (số 2 thế giới),
hoặc để đa số các nước Đông Nam Á hoá rồng, như Hàn Quốc (thứ 13 thế giới) hay
Đài loan, Hongkong hay Singapore (tốp Rồng con), Malaysia hay Thái Lan (tốp đầu
Đông Nam Á), chỉ riêng trừ Việt Nam XHCN là cứ tự mình “ưu việt” từ tốp đầu ĐNA
lùi lại chót!
Hiện nay, rõ ràng
ngay cả Philippine, Miamma, Lào hay Cămpuchia cũng đã, đang và sẽ có khả năng
bứt phá, vượt qua Việt Nam trong 3-5 năm tới, làm câu hỏi trên càng thêm vô
cùng nhức nhối lòng mỗi người Việt có tự trọng và tư duy.
Vậy, các nước đã
và sẽ hoá rồng bứt phá bằng những điều kiện ưu việt hơn ta? Không, họ chỉ bứt
phá bằng tư duy kinh tế khác. Đó không còn là vấn đề đúng sai của các chiến
lược, mô hình hay đường lối kinh tế của đảng và chính phủ nữa, bởi vì vấn đề
chiến lược các nước đều có thể học nhau và tự điều chỉnh… Vấn đề là tư duy kinh
tế nào của đảng và chính phủ đang là cơ sở cho việc áp dụng các chiến lược kinh
tế đó suốt mấy chục năm nay mà không thay đổi?
Tư duy kinh tế đó
đã và đang trói chân buộc cánh nền kinh tế Việt Nam vốn “hứa hẹn cất cánh” từ
1975, rồi lại được kỳ vọng “sẽ cất cánh” sau đổi mới 1986, rồi lại “đang trên
đường rồng bay” từ 2000, suốt cả hơn chục năm nay? Để rồi sắp hạ cánh xưống vực
thẳm trong 2012-2013?!
Vậy, cái gọi là Tư
duy kinh tế của Việt Nam
là gì? Đó là tư duy kinh tế XHCN mang tính thị trường hay Tư duy kinh tế Thị
trường định hướng XHCN, duy nhất chỉ VN có trên thế giới và na ná giống một hệ
tư duy kinh tế cũng duy nhất khác: kinh tế Thị trường mang bản sắc TQ…(thực ra
thì ta copy cái tên và chế biến đồ cũ dùng lại).
Thực trạng kinh tế Việt Nam 2011: một câu hỏi lớn
Cuộc “cất cánh”
của nền kinh tế Việt Nam từ 1986 đến 2011 nghe chừng vẫn đang trục trặc chưa
tìm thấy “đường băng” đâu, mà chỉ thấy bản thân nó đang bị rụng rơi từng “cánh”
một…
Rụng đầu tiên là
“cánh” “quả đấm thép” đóng tàu Vinashin. Nó cũng đã làm tan nát chiến lược kinh
tế biển quốc gia đến 2030 mà Vinashin đã được thủ tướng và đảng đặt ở trọng
tâm, ảnh hưởng tồi tệ đến không chỉ các ngành kinh tế biển khác (như hàng hải,
thuỷ sản, du lịch, dầu khí, năng lượng…) mà cả khoa học biển và an ninh quốc
phòng, cả vẹn toàn lãnh thổ quốc gia trên biển.
Tiếp theo là
“cánh” “giấc mơ bốn bánh ô tô” dần tan vỡ âm thầm trước khí lên tiếng chào đời,
để cho La Đalạt của CVCH từ trước 1975 vẫn là đỉnh cao ngất ngưởng không thể
vượt qua. “Giấc mơ bốn bánh” kết thúc bằng thế giới đệ nhất thị trường xe hai
bánh (thị trường lớn nhất) cho 95% dân lao động và thế giới đệ nhất xe sang
(nhập ngoại) của quan chức và các đại gia “cùng nhóm” thân hữu. Tóm lại là Việt
Nam
chắc chắn và mãi mãi sẽ không bao giờ có một mác xe nào của mình ngoài La Đà
lạt thân yêu!
“Cánh” đường sắt
thì mới bị gãy trên “giấy” và “mồm” sau cơn cuồng ngộ ĐSCT của chính phủ, nay
cũng chưa thể nâng cấp đường 1m thành 1,45m…, điều thế giới cơ bản đã làm xong
trong thế kỷ trước rồi. Dù vậy, đảng ta vẫn còn đang âm mưu trở lại ước mơ ĐSCT
mang màu sắc TQ trong tương lai gần để đưa dân tộc “đi tắt vào tương lai”…
Còn “cánh” ngành
vật liệu cơ bản (thép, xi măng…), vốn chỉ biết bán nhân công độc quyền kiếm lời
trên sân nhà và xin chế độ bảo hộ thì luôn thua trắng nước ngoài và chỉ biết đổ
lỗ cho thị trường nội địa.
“Cánh” công nghiệp
nặng và cơ khí chế tạo “là then chốt” của nên kinh tế đất nước nửa thế kỷ nay
thì đã gãy chốt từ trước 1986 mà chưa gắn chốt lại được, và có lẽ kinh tế nước
ta sẽ mãi mãi không có then chốt nữa, vì…
“Cánh” cơ
khí-luyện kim-chế tạo máy với hàng trăm hàng ngàn tiến sĩ giáo sư vẫn chưa làm
nổi các con bùlong đinh ốc cho chiếc xe máy, chứ chưa nói đến cho các ngành
công nghiệp nội địa, và còn phải đi học các bác nông dân đang tự chế tạo máy
móc nông cụ cho đến cả trực thăng… vài trăm năm nữa?
Các “cánh” điện
tử, hoá chất, nhựa cũng sẽ sắp tan chảy hay bốc khói … vì chỉ chuyên dùng máy
móc và công nghệ cũ của TQ, Đài loan…thải ra, không chế được 1 con chip, lắp
đước một cái handphone…
“Cánh” điện, nước,
xăng, dầu, than khoáng sản… thì luôn là hiểm hoạ tăng giá sản xuất và sinh hoạt
của xã hội lên không ngừng vì …kinh doanh lỗ! Lạ thế, có tiền vốn, có độc quyền
thị trường, có mọi chính sách hỗ trợ và chỉ việc đào tài nguyên đất nước của Tổ
tiên để lại lên mà bán mà cứ lỗ triền miên trên “mỏ vàng vô tận” của dân tộc…
Tôi xin nói riêng
về “cánh” dầu khí trong dịp khác, vì khi nó gẫy là thảm hoạ kinh tế sẽ bao trùm
tất cả, nền kinh tế quốc gia sẽ sụp đổ, quốc gia sẽ sụp đổ…
Chỉ có “cánh” buôn
bán nông sản, hải sản, và nhân công may mặc, giày da… là có lãi và có nhiều
đóng góp tích cực cho nền kinh tế, nhưng người lao động thì ngày càng vô sản và
tương lai ngành cũng hoàn toàn phụ thuộc thị trường “tư bản bóc lột” quốc tế mà
thôi.
Các cánh là nông
nghiệp và kinh tế dân doanh thì không thể rụng được, vì các nhân dân vẫn luôn
còn đó, nhân dân vẫn luôn phải tự nuôi mình, chỉ có điều họ không thể nuôi cả
đảng và chính phủ, quân đội chỉ bằng sức lao động của họ mà thôi. Nhung nông
dân vẫn thiếu đói, cụ thể là Thanh Hoá đang đói rộng (trên 240,000 dân đang
thiếu đói 2011!).
Chỉ có hai điểm
sáng le lói cuối đường hầm kinh tế Việt Nam: kinh tế tư nhân và đầu tư nước
ngoài.
Có mẫu số chung nào
trong tình trạng đó của nền kinh tế nước ta hiện nay? Đó là tư duy kinh tế định
hướng XHCN!
Thử lý giải hiện trạng và gọi tên nguyên nhân “gẫy cánh”
Thẳng thắn mà nói,
bản thân cách chúng ta phải liệt kê thất bại của các ngành kinh tế VN như trên
cũng đã nói nên nguyên nhân thất bại của nó trong tư duy kinh tế, đó là cách tư
duy cục bộ, tư duy chiến tranh và tư duy chuyên ngành của lý thuyết kinh tế
XHCN, bắt nguồn từ khái niệm XHCN ảo tưởng, đã quá lỗi thời vì sai lầm và đã bị
cha sinh mẹ để của nó bỏ đi, mà VN ta đã “xin giống về trồng” đến nay vẫn quyết
một lòng chăm bón.
Tư duy kinh tế cục
bộ là cách tư duy tách biệt theo đơn vị địa phương nhỏ cấp tỉnh, tách khỏi cả
nền kinh tế, không gắn liền và có quan hệ phụ thuộc hữu cơ với các bộ phận
khác, như chiến lược chiến tranh du kích vậy. Nó rất tiện cho quan địa phương
xâu xé, vì ngân sách quan trọng của nó là quĩ đất địa phương…
Tư duy kinh tế
chiến tranh là cách tư duy xin-cho theo mệnh lệnh, nhiệm vụ cụ thể, riêng biệt
của mỗi ngành kinh tế, không cần biết đến mối quan hệ của nhiệm vụ đó với các
hoạt động kinh tế khác, giống như trong chiến tranh chỉ đơn vị nào tập trung
biết nhiệm vụ của mình giao từ cấp trên…
Tư duy kinh tế vĩ
mô chuyên ngành, tức là từ cấp nhà nước người ta đã chia nhỏ mục tiêu và nhiệm
vụ cụ thể rất vật chất và chuyên sâu cho từng bộ ngành, được đo bằng nhiệm vụ
chính trị trước rồi mới đến hiệu quả kinh tế sau, rồi phân chia ngân sách (thuế
và đi vay) cho từng ngành, để mỗi ngành từ đó tự mà lo hoàn thành nhiệm vụ.
Tất cả các ngành
như một bầy bê con tranh nhau bú từ một bầu sữa bò mẹ, giữa chúng không hề có
quan hệ tương tác chung nào khác ngoài cùng bò mẹ, hoặc quan hệ không được điều
tiết bằng chính sách, mà chỉ bằng mệnh lệnh của… bò mẹ.
Đây là cách nhìn
kinh tế của Mác, giống như Mác đã chia xã hội thành các giai cấp vậy. Nếu xã
hội là một rừng cây, thì theo Mác, các “giai cấp” Lá, Cành, Thân, Rễ, Quả, Hoa…
phải đấu tranh sinh tồn với nhau để tồn tại. Và để phát triển, một giai cấp (Lá
chả hạn) phải tiêu diệt hết các giai cấp khác, biến họ thành mình… Rừng XHCN sẽ
toàn lá?!
Như vậy, mục tiêu
của đảng: “mỗi địa phương phải là một “pháo đài kinh tế” XHCN” (xưa là cấp
huyện- hơn 500 pháo đài, nay là cấp tỉnh -hơn 60), “môĩ bộ ngành là một “đầu
máy kinh tế” XHCN độc lập” (nay: hơn 20 bộ và gần 20 tập đoàn, tổng cty).
Từ tư duy đó, mỗi
trong hơn sáu chục tỉnh thành đều phải có đủ các ngành “thế mạnh”: công nghiệp
địa phương, các khu công nghiệp, các khu tiểu thủ công nghiệp, khu thương mại,
du lịch phải có cả trường đại học của tỉnh, có y tế, giao thông riêng…bất chấp
chất lượng và hiệu quả kinh tế. Tư duy của bộ máy hành chính tỉnh, thành phố
giống như tư duy của nguyên thủ quốc gia thu nhỏ, thành các ông vua con địa
phương;
Từ tư duy đó, mỗi
trong hơn ba chục bộ ngành nghề đều phải có đủ các các khu công nghiệp chuyên
các khắp các vùng, các tỉnh từ bắc chí nam (Vinashin từng có trên 20 khu công
nghiệp đóng tàu!), có các trường đại học chuyên ngành, các viện nghiên cứu khoa
học chuyên sâu, các trung tâm tài chính riêng, các ngành công nghiệp phụ trợ
riêng, các trường và trung tâm đào tạo lạo động chuyên ngành riêng, hậu cần du
lịch, y tế riêng, bảo hiểm riêng…cũng bất chấp chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Tư duy của bộ máy hành chính các bộ ngành giống y như tư duy của văn phòng
chính phủ thu nhỏ, phải có đủ mọi lĩnh vực kinh doanh để “độc lập”(vơ vét): các
chính phủ con;
Tổng cộng, (không
tính các lực lượng kinh tế của quân đội, công an, đảng, công đoàn, phụ nữ,
thanh niên… rất đông đảo và hùng hậu), trong nhà nước VN XHCN ta có khoảng trên
một trăm “quốc gia và chính phủ con” như thế (khoảng trên 120) để thực hiện một
mục tiêu kinh tế xã hội bằng trên dưới một trăm cách, một trăm hướng độc lập và
cạnh tranh nhau khốc liệt khác nhau, tất cả có đầy đủ các hệ thống cung cấp
dịch vụ riêng nội bộ giống như nhau: dịch vụ giao thông, đào tạo, nghiên cứu,
nhà ở, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, …như loạn “120 xứ quân” vậy.
Tôi đã từng nghe
các vị chủ tịch nhiều tỉnh thao thao tư duy kinh tế của mình như một vị nguyên
thủ quốc gia cao nhất, hay các vị chủ tich TGĐ các tập đoàn thao thao các kế
hoạch phát triển biết bao ngành nghề trọn gói chỉ tự cho tập đoàn minh, cứ như
một vị đững đầu chính phủ lo cơm áo cho cả quốc gia. Tư duy của họ 120 kẻ đứng
đầu “120 xứ quân” như vậy, đáng mừng hay đáng lo? Đảng thì mừng. Tôi thì lo,
rất lo, cho dân.
Ví dụ “thủ tướng
con”: Cựu TGĐ tập đoàn Vinashin Trần Quang Vũ từng chiêu đãi chúng tôi một bữa
trưa thịnh soạn có món tôm sú hấp và ông giới thiệu đó là tôm tập đoàn Vinashin
nuôi trên mấy chục hecta chỉ để cung cấp cho cán bộ công nhân viên các nhà máy
đóng tầu ăn cũng không đủ. Tôi xuống nhà bếp nói chuyện hỏi anh em thì họ nói
bị tập đoàn ép mua tôm đắt hơn ngoài chợ và họ phảỉ ăn mãi một món tôm đắt cả
tuần, hàng ngàn công nhân đều ớn mà không ai kêu đến tai ông tổng được. Cũng
ông Vũ bữa khác còn khoe rằng tập đoàn ông đang đầu tư mấy trăm hecta rừng
trồng thông để cung cấp…cây thông Noel cho công nhân tập đoàn cả nước! Kết quả
của tư duy kinh tế Vinashin đó thế nào ta đã rõ…
Ví dụ “vua con”:
Bí thư một tỉnh trung du duyên hải tầm trung bình như Quảng Ninh nhưng có khá
lắm đất nhiều đồi, rất ít ruộng lại quyết tâm mong muốn để mỗi huyện thị phải
có ít nhất 2-3 khu công nghiệp, tỉnh có 13 huyện thị vị chi sẽ phải có trên hai
chục khu công nghiệp (sẽ lấy đi số lớn đất ruộng nông nghiệp vốn rất ít ỏi của
tỉnh) để hy vọng thu hút đầu tư.
Với tư duy của các “vua con” như vậy, cả nước
đang có trên 300 KCN và con số này sẽ tiến đến 500 trong vài năm tới (đã qui
hoạch xong). Trong khi đó, Singapore là quốc gia chỉ có 5 khu công nghiệp nhưng
có tổng thu nhập năm 2010 trên 182 tỷ USD, gấp đội VN – 86 tỷ USD). Tư duy tỉnh
nào cũng phải có nhiều KCN để thu hút đầu tư làm nước ta có số khu công nghiệp
đã quy hoạch gấp 60 lần Singapore nhưng GDP bằng một nửa của họ khi dân số gấp
hơn 20 lần, tức hiệu quả kinh tế kém gấp khoảng… hơn hai nghìn bốn trăm lần!
Cơ sở của tư duy
theo ngành và địa phương và rồi của hệ thống tổ chức quân đôiu, chính trị, xã
hội trong cả nền kinh tế quốc gia như thế là do lý thuyết kinh tế Mác-Lênin vốn
chỉ coi trọng các ngành sản xuất ra sản phẩm vật chất, không coi dịch vụ là
ngành cũng làm ra giá trị đóng góp vào tổng thu nhập quốc dân. Nay dù thu nhập
quốc dân đã được tính gồm cả giá trị dịch vụ (đến trên 40%) thì cơ cấu tổ chức
nhà nước với các bộ ngành của ta, các sở ban ngành của các tỉnh thành vẫn gần
nguyên như cũ.
Hiện trạng của tư
duy kinh tế XHCN và kèm theo nó là các tổ chức kinh tế như trên làm:
- Tổ chức kinh tế
nặng nề, bùng nhùng, không có chỉ huy, kém linh hoạt và không hiệu quả: không
thực sự đủ sức làm tốt việc gì;
- Khó hạch toán
minh bạch gây nhiều thất thoát, khó kiểm soát gây tham nhũng bùng phát bên
trong các tổ chức;
- Chia quá nhỏ và
dàn trải tiềm lực kinh tế, không tập trung được vốn cho các khu vực trọng điểm;
không thể chuyên sâu để có trình độ cao, chất lượng tốt để cạnh tranh quốc tế;
- Nhiều vấn đề các
ngành hay các địa phương không thể tự giải quyết được mà phải là liên ngành và
cấp trung ương cùng giải quyết như: đào tạo và cung cấp nhân lực lao động phổ
thông chất lượng cao, phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ chung, đầu tư
phát triển các trung tâm nghiên cứu thí nghiệm ững dụng liên ngành, các đơn vị
cung cấp dịch vụ chuyên, chung, và độc lập như bảo hiểm, tài chính, y tế, hay
nghĩ dưỡng, du lịch…
- Các vấn đề không
được giải quyết vì không được nhìn ra lại càng tự lây lan hay thấm sâu và gây
cản trở cho phát triển chung…
Tư duy kinh tế như
vậy có thể gọi là tư duy kinh tế tự sát hay tư duy bị ung thư, mà cái gen ung
thư chính là hạt giống XHCN. Muốn khỏi chết, chỉ có cắt bỏ khối ung thư.
Kinh tế Việt Nam muốn phát
triển thành Rồng, chỉ có một con đường: bỏ tư duy định hướng XHCN. Thay nó bằng
gì? Chả cần thay gì cả, Tư duy kinh tế thị trường – hạt giống đã có trong khối
kinh tế tư nhân và nước ngoài, tự nó sẽ phát triển thay thế và phát huy tác
dụng tốt cho cả nền kinh tế và cả xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét