Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2012

Cả nước đã bị lừa

Đã hơn 3 thập kỷ trôi qua, làm ăn cực nhọc là thế, thành tựu không thể nói là nhỏ, thế mà khoảng cách phát triển của VN so với thế giới sao vẫn xa vời! Không định thần nhìn nhận lại tất cả, không khéo chúng ta sẽ ngày càng đi sâu vào con đường đi làm thuê, đất nước có nguy cơ trở thành đất nước cho thuê với triển vọng là bãi thải công nghiệp của các quốc gia khác! Giữa lúc thế giới đang bước vào thời kỳ kinh tế trí thức!


150 năm đã trôi qua, nhưng bài học này còn nguyên vẹn. Đó là 80 năm nô lệ, 40 năm với 4 cuộc chiến tranh lớn (Pháp, Mỹ, Cam Bốt, Tàu) – trong đó 3 thế hệ liên tiếp gánh chịu những hy sinh khốc liệt, 35 năm xây dựng trong hòa bình với biết bao nhiêu lận đận, và hôm nay VN vẫn còn là một nước chậm tiến.

Thảm kịch của đảng cộng sản thực ra đã bắt đầu ngay từ ngày 30-4-1975. Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.


Nhìn lại sau hơn nữa thế kỷ dưới chế độ CS, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra :

_ Năm 1954 sau khi thắng Pháp, tại sao hơn 1 triệu người Bắc phải bỏ lại nhà cửa ruộng vườn di cư vào miền Nam ?
_ Sau năm 1975 , tại sao dân miền Nam không ồ ạt di cư ra Bắc sinh sống để được hưởng những thành quả của CNXH mà chỉ thấy hàng triệu người Bắc lũ lượt kéo nhau vào Nam lập nghiệp ?
_ Tại sao sau khi được “giải phóng” khỏi gông cùm của Mỹ-Ngụy, hàng triệu người phải vượt biên tìm tự do trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông ?
_ Tại sao nhân viên trong các phái đoàn CS đi công tác thường hay trốn lại ở các nước tư bản dưới hình thức tị nạn chính trị ?


Tất cả những thành phần nêu trên, họ muốn trốn chạy cái gì?

_ Tại sao đàn ông của các nước tư bản Châu Á có thể đến VN để chọn vợ như người ta đi mua một món hàng?
_ Tại sao Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp đổ?
_ Tại sao lại có sự cách biệt một trời một vực giữa Đông Đức và Tây Đức, giữa Nam Hàn và Bắc Hàn?
_ Tại sao nước ta ngày nay phải quay trở lại với kinh tế thị trường, phải đi làm công cho các nước tư bản?
_ Tại sao các lãnh tụ CS lại gởi con đi du học tại các nước tư bản thù nghịch?


Hỏi tức là trả lời, người VN đã bỏ phiếu bằng chân từ bỏ một xã hội phi nhân tính . Mọi lý luận phản biện và tuyên truyền của nhà nước cộng sản đều trở thành vô nghĩa.


Sự thực đã quá hiển nhiên nhưng đảng cộng sản không thể công khai nhìn nhận. Họ không thể nhìn nhận là đã hy sinh bốn triệu sinh mệnh trong một cuộc chiến cho một sai lầm. Nếu thế thì họ không còn tư cách gì để nắm chính quyền, ngay cả để hiện diện trong sinh hoạt quốc gia một cách bình thường.


Nhìn nhận một sai lầm kinh khủng như vậy đòi hỏi một lòng yêu nước, một tinh thần trách nhiệm và một sự lương thiện ở mức độ quá cao đối với những người lãnh đạo cộng sản. Hơn nữa họ đã được đào tạo để chỉ biết có bài bản cộng sản, bỏ chủ nghĩa này họ chỉ là những con số không về kiến thức. Cũng phải nói là trong bản chất con người ít ai chịu từ bỏ quyền lực khi đã nắm được.


Thế là sau cuộc cách mạng long trời lở đất với hơn ba chục năm khói lửa, máu chảy thành sông, xương cao hơn núi, Cộng sản Hà Nội lại phải đi theo những gì trước đây họ từng hô hào phá bỏ tiêu diệt. Từ ba dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, hy sinh hơn bốn triệu mạng người, đi lòng dòng gần nửa thế kỷ, Cộng sản Hà Nội lại phải rập khuôn theo mô hình tư bản để tồn tại .


Hiện tượng “Mửa ra rồi nuốt lại” này là một cái tát vào mặt các nhà tuyên giáo trung ương.


Cách mạng cộng sản đã đưa ra những lí tưởng tuyệt vời nhất, cao cả nhất, đã thực hiện những hành động anh hùng vô song, đồng thời cũng gieo vào lòng người những ảo tưởng bền vững nhất.


Nhưng thực tế chuyên chính vô sản đã diễn ra vô cùng bạo liệt, tàn khốc, chà đạp man rợ lên đạo lý, văn hóa và quyền con người ở tất cả các nước cộng sản nắm chính quyền. Sự dã man quỷ quyệt mánh lới và sự bất nhân khéo che đậy của cộng sản chưa hề thấy trong lịch sử loài người.


Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải im lăng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.


Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối, những kẻ mù chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ giáo điều…


Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội.


Cơ chế quyền lực cộng sản tạo ra những hình thức đàn áp tinh vi nhất và bóc lột dã man nhất. Vì vậy công dân trong các hệ thống cộng sản hiểu ngay điều gì được phép làm, còn điều gì thì không. Không phải là luật pháp mà là quan hệ bất thành văn giữa chính quyền và thần dân của nó đã trở thành “phương hướng hành động” chung cho tất cả mọi người.


Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ vét tiền của của Nhà nước. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là suy đồi đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống…


Bác và đảng đã gần hoàn thành việc vô sản hóa và lưu manh hóa con người VN (vô sản lưu manh là lời của Lê Nin). Vô sản chuyên chính (đảng viên) thì chuyển sang làm tư bản đỏ, còn vô sản bình thường (người dân) trở thành lưu manh do thất nghiệp, nghèo đói.

Nền kinh tế Việt Nam bây giờ chủ yếu là dựa trên việc vơ vét tài nguyên quốc gia, bán rẻ sức lao động của công nhân và nông dân cho các tập đoàn kinh tế ngoại bang, vay nước ngoài do nhà nước cộng sản làm trung gian .


Huyền thoại giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp do cộng sản Việt Nam dày công dàn dựng đã tan thành mây khói khi giai cấp “vô sản” âm thầm lột xác trở thành các nhà tư bản đỏ đầy quyền lực và đô la.
 

Do vậy, lý thuyết cộng sản dần dần mất đi tính quyến rủ hoang dại. Nó trở nên trần trụi và lai căng. Tất cả điều đó đã làm cho các ĐCS trên toàn thế giới dần dần chết đi. Dù GDP có tăng lên, nhiều công trình lớn được khánh thành do vay mượn quỹ tiền tệ Quốc Tế nhưng đạo đức xã hội cạn dần. Thực tế cho thấy rằng sức mạnh không nằm ở cơ bắp. Vũ khí, cảnh sát và hơi cay chỉ là muỗi mòng giữa bầu trời rộng lớn nếu như lòng dân đã hết niềm tin vào chính quyền.


Học thuyết về xây dựng một xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chỉ là một loại lý tưởng hóa, nó là chiếc bánh vẽ để lừa gạt dân, không hơn không kém; đảng nói một đằng, làm một nẻo.


Chẳng hạn đảng nói “xây dựng xã hội không có bóc lột” thì chính những đảng viên lại là những người trực tiếp tham nhũng bóc lột người ; đảng nói ” một xã hội có nền dân chủ gấp triệu lần xã hội tư bản” thì chính xã hội ta đang mất dân chủ trầm trọng; đảng nói “đảng bao gồm những người tiên phong nhất, tiên tiến nhất” nhưng thực tế thì đảng đầy rẫy những người xấu xa nhất, đó là những kẻ đục khoét tiền bạc của nhân dân.


Sở dĩ ĐCSVN còn cố giương cao ngọn cờ XHCN đã bị thiêu rụi ở tất cả các nước sản sinh ra nó vì chúng đang còn nhờ vào miếng võ độc “vô sản chuyên chính” là… còng số 8, nhà tù và họng súng để tồn tại !

Nhân dân đang hy vọng rằng Đảng sớm tự ý thức về tội lỗi tầy trời của mình . Đảng sẻ phải thẳng thắn sám hối từ trong sâu thẳm chứ không chỉ thay đổi bề ngoài rồi lại tiếp tục ngụy biện, chấp vá một cách trơ trẽn.


Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”


Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ … đồ đểu ! vết nhơ muôn đời của nhân loại.


Một thời kỳ mà tâm trạng của người dân được thi sĩ cách mạng Bùi Minh Quốc tóm tắt qua 2 vần thơ :
“Quay mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa!
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!”

Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của bao người con nước Việt dâng hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế hay sao?


Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và phi nhân như vậy?


Tương lai nào sẽ dành cho dân tộc và đất nước Việt Nam nếu cái tốt phải nhường chổ cho cái xấu?


Một xã hội mà cái xấu, cái ác nghênh ngang, công khai dương dương tự đắc trong khi cái tốt, cái thiện phải lẩn tránh, phải rút vào bóng tối thì dân tộc đó không thể có tương lai!


Một kết cục đau buồn và đổ vỡ là điều không tránh khỏi.


Châu Hiển Lý – Bộ đội tập kết 1954




Quốc hội Âu Châu lên án chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại

Ngày 25.01.2006, tại Strasbourg, Pháp, Quốc hội Âu Châu, với đa số áp đảo, 99 phiếu thuận, 42 phiếu chống, đã đưa ra nghị quyết số 1481, lên án chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại, và các chế độ toàn trị cộng sản đã vi phạm nhân quyền tập thể.


 

Nguyễn Văn Thiệu (tổng thống Đệ nhị Cộng hòa, nhiệm kỳ 1967-1975 - mất năm 2001):
Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm.



Martin Luther King (mục sư Tin Lành, mất năm 1968)
Điều làm cho kinh hãi  không phải là sự đàn áp của kẻ ác, mà là sự thờ ơ của kẻ thiện.


Mikhail Gorbachev (tổng bí thư cuối cùng của đảng cs Liên Xô, nhiệm kỳ 1985-1991):
Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.


Boris Yeltsin (tổng thống đầu tiên của Liên bang Nga, nhiệm kỳ 1991-1999 - mất năm 2007):
Cộng sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải nó.


Vladimir Putin (tổng thống Nga, nhiệm kỳ 2000-2008):
Kẻ nào tin những gì cộng sản nói là không có cái đầu. Kẻ nào làm theo lời của cộng sản là không có trái tim.


Milovan Djilas (Bí thư đảng CS Nam Tư - mất năm 1995)
20 tuổi mà không theo cộng sản là không có trái tim, 40 tuổi mà không từ bỏ cộng sản là không có cái đầu.


Dalai Lama (lãnh tụ tinh thần Phật giáo Tây Tạng):
Cộng sản là loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng độc sinh sôi nẩy nở trên rác rưởi của cuộc đời.


Angela Merkel (thủ tướng Đức, đương nhiệm từ 2005)
Cộng sản đã làm cho người dân trở thành gian dối. Dưới chế độ cộng sản chỉ tạo nên những con người dối trá.


















Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012

Giá trị của đồng tiền lẻ

Mỗi lần đi chợ về tôi lại có thói quen gom hết tiền lẻ bỏ vào ngăn kéo nơi bàn làm việc của mình. Tôi không có chỗ nào khác để cất những đồng tiền lẻ ấy mà để vào ngăn kéo để có thể nhìn ngắm chúng vì đó là thói quen mà khi ba tôi còn sống ông ấy thường làm. Tôi thấy và bắt chước ông tự lúc nào không hay nhưng cho mãi tới ngày hôm nay tôi vẫn tự tin rằng thói quen nhìn những đồng tiền lẻ giúp tôi bình thản rất nhiều trong cái tranh đua thường nhật với đời sống kinh tế cùng những chật chội oi bức về xã hội của thành phố.

Bắt đầu là những tờ bạc 200 đồng. Tôi tin rằng đây là tờ bạc khiêm nhượng nhất còn lưu hành ngoài chợ tuy ngày càng hiếm đi. 200 là đơn vị tính không hề nhỏ, nhưng khi con số đó nằm trên tờ giấy được gọi là tiền đồng Việt Nam thì nó trở nên lẻ loi đến thảm hại. Không một món hàng nào ngoài chợ có cái giá 200 đồng bạc. Nó chỉ dành để thối lại mà phải nhiều tờ nhập lại mới đủ làm cái công việc thối cho khách hàng. 5 tờ thì thành 1.000 và 10 tờ thì thành 2.000…Cứ thế, những tờ bạc 200 đồng chỉ sống sót khi được nằm chung với nhau, chúng ký sinh lẫn nhau và sống đời sống tầm gửi chờ ngày biến mất.

Mỗi lần nhìn những tờ bạc nhỏ nhoi ấy tôi lại thấy thấm thía thân phận của chính mình. Ba tôi thường nói tờ bạc lẻ nói lên cả một quá trình của một chế độ với biến thiên lịch sử lẫn kinh tế xã hội của nó. Trị giá đồng tiền lẻ càng lớn thì đời sống của xã hội càng vững vàng vì nền kinh tế tận dụng từng chút giá trị của đồng bạc lẻ nói lên sự ổn định của xã hội và đôi khi cả chính trị nữa.

Sau hai đợt đổi tiền với ý đồ ngây thơ là nâng giá trị của đồng tiền lên nên ban đầu những tờ bạc mệnh giá từ 200 lên tới 2.000 tự nhiên được nâng cao giá trị. Thế nhưng giá trị thật của tờ bạc không nằm ở con số mà ở tình trạng GDP của quốc gia. Việt Nam có lẽ là một trong những nước có những đồng bạc lẻ vô giá trị trên bàn làm việc của ngân hàng tuy chúng vẫn được những chị hàng rong vui vẻ chấp nhận. Thân phận của những đồng tiền lẻ ấy vẫn còn một chút an ủi vì ít ra chúng còn được những bàn tay kham khổ của giai cấp thấp nhất xã hội vuốt ve mỗi buổi tối khi trở về từ mọi hóc hẻm của thành phố.

Người ta không chú ý đến những đồng tiền lẻ nhưng nếu được tống khứ nó đi bằng một nắm tiền để đổi lấy một tờ vé số chẳng hạn thì lại cảm thấy hân hoan hạnh phúc. Tâm lý vứt bỏ một vật kém giá trị bằng cách đổi lấy một vật có giá trị ngang với một tờ giấy lộn làm cho không ít người sung sướng. Tâm lý thắng lợi tinh thần này không những gắn liền với cách ứng xử của nhiều người mà nó còn thể hiện trong không ít chính sách hiện nay mà xã hội đang kêu rêu chống đối.

Chính sách xuất khẩu lao động có thể là một ví dụ tốt cho hình thái này. Người nghèo khó và không còn cơ hội nào nữa mới chấp nhận làm thân phận đi làm thuê ở nước ngoài. Họ như những đồng tiền lẻ mà giá trị được các công ty kinh doanh đem ra trao đổi để thu về những gói lợi nhuận nhưng không hề để ý đến quyền lợi của người làm thuê. Bao nhiêu cũng tốt và bao nhiêu cũng bán. Các công ty xuất khẩu lao động không hề bị theo dõi xem việc làm của họ có phù hợp với lợi ích của người lao động hay không bởi chính sách tận bán không cần hậu mãi của nhà nước đã và đang khuyến khích cho không ít kẻ trục lợi trên những con người nghèo khổ này.

Chính sách này cho thấy tư duy của nhà nước luôn nghĩ rằng những con người không nghề nghiệp kia được làm việc, được hưởng lương là một điều may mắn và vì vậy cho dù quyền lợi của họ có bị xem thường một chút thì cũng không đáng quan tâm. Họ giống như những đồng tiền lẻ được mang đi đổi lấy một lợi nhuận nào đó và điều này được xem là thắng lợi, thắng lợi tinh thần.

Ngược lại với những đồng tiền lẻ là những loại tiền mệnh giá tối đa. 500 ngàn là tờ bạc của người giàu hay ít ra cũng là niềm mơ ước của người nghèo. Báo chí hồ hởi viết những bài phóng sự ca tụng mức độ ăn chơi trác táng của những kẻ mới giàu làm cho người nghèo vừa nhục lại vừa đau. Họ ngồi đếm những đồng tiền lẻ và ngạc nhiên tự hỏi tại sao mình có thể sống sót qua bao nhiêu năm trời dưới cái nghèo đói triền miên như vậy?

Trong khi đó những khuôn mặt được gọi là đại gia với những thước tiền không đếm xuể không hề có một chút ấn tượng nào về loại tiền khó đếm chỉ dành cho người nghèo này. Họ chỉ có ấn tượng với những chiếc xe ngoại quốc sang trọng cực kỳ. Họ ấn tượng với những thứ sản phẩm kỳ cục được thổi lên và tán tụng lẫn nhau trong cùng giới. Những cây cảnh tầm thường được chăm chút rồi thổi phồng qua phương tiện báo chí để giá cả trở thành hàng trăm tỷ chỉ có thể lừa gạt trong giới của họ. Họ phù phiếm ngồi trong những phòng lạnh sang trọng nói về thế giới chung quanh với tâm thức và tư duy của những kẻ trọc phú. Giọng điệu của họ dễ làm cho người có học tởm lợm nhưng lại được những người chuyên sài tiền lẻ ngưỡng phục. Sự ngưỡng phục không phải từ ý thức muốn làm giàu mà từ tâm lý trống rỗng của chiếc bao tử.

Nếu một lúc nào đó các đại gia tình cờ cầm tờ giấy bạc 200 đồng lên và thấm thía từng giọt mồ hôi vẫn còn phảng phất trên ấy thì có lẽ việc vung tiền của họ sẽ giảm bớt. Những tờ giấy bạc nhỏ nhoi ấy có thể như một trang kinh thánh bị rơi ra nhưng có khả năng nhắc nhở cho người ta rằng tiền có thể mua mọi thứ nhưng không thể mua được bình an trong tâm hồn.

Đừng tưởng là đại gia thì không có điều gì làm họ sợ hãi. Đồng tiền của họ chỉ có thể thu phục bọn giá áo túi cơm, sống bám vào hành vi bất chính và do đó khi một luồng sóng cách mạng tràn về thổi bay những rác rến ấy thì không ít đại gia sẽ lộ mặt với những tội lỗi không thể đếm hết mà trong đó tội móc nối với quyền lực để làm giàu trên những người sài bạc lẻ là một.

Người làm giàu bất chính lo sợ rất nhiều thứ nhưng điều họ sợ nhất là một ngày nào đó họ phải tiêu những đồng tiền lẻ mà bấy lâu nay họ không bao giờ để ý.

Cánh Cò (RFA)